Archiv der Kategorie: Mưa pháp

Quê hương nơi này

Hai năm trưóc, vào năm 1966 khi tôi đang tham dự một hội nghị tại Washington DC thì được một phóng viên của tờ Baltimore Sun báo tin là chính phủ Sài Gòn đã ra công văn thúc giục nhà nước Hoa Kỳ, Pháp, Anh và Nhật không công nhận hộ chiếu của tôi với lý do là tôi đã tuyên bố những lời lẽ chống đối cuộc chiến chống Cộng Sản của chính phủ Sài Gòn. Các quốc gia trên chấp nhận sự yêu cầu đó và hộ chiếu của tôi trở nên vô hiệu lực. Vài người bạn của tôi ở Washington khuyên tôi nên trốn ở lại Hoa Kỳ. Nhưng nếu trốn ở lại thì sẽ có nguy cơ là tôi bị trục xuất và ngồi tù. Vì thế tôi quyết định không ở lại Hoa Kỳ mà sang Pháp xin tị nạn. Chính phủ Pháp cho phép tôi được tị nạn và cấp cho tôi giấy thông hành vô quốc tịch. Vô quốc tịch có nghĩa là bạn không thuộc về quốc gia nào cả, bạn là người vô tổ quốc. Với giấy thông hành này, tôi có thể đến bất cứ quốc gia nào ở Châu Âu đã từng ký kết Hiệp Ước Geneva. Nhưng muốn sang Hoa Kỳ hay Canada tôi phải xin cấp chiếu kháng nhập cảnh. Điều này rất khó khi bạn không còn là công dân của một nước nào cả. Ý định ban đầu của tôi là rời Việt Nam trong ba tháng để đến giảng dạy tại trường đại học Cornell và đồng thời làm một chuyến du thuyết kêu gọi hòa bình ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Sau đó tôi sẽ trở về quê hương. Gia đình tôi, bạn bè và cộng tác viên của tôi, cả cuộc đời tôi đều ở Việt Nam. Nhưng ai ngờ giờ đây tôi phải sống lưu vong, mà lưu vong đến tận 40 năm.

Mỗi lần nộp đơn xin chiếu kháng nhập cảnh Hoa Kỳ là tôi bị từ chối. Chính phủ Hoa Kỳ không chào đón tôi. Họ nghĩ tôi sẽ làm hại đến sự chiến đấu của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tôi cũng không được đến nước Anh. Tôi phải viết thư cho những nghị sĩ như ông George McGovern hay ông Robert Kennedy nhờ họ viết cho tôi một thư mời. Họ đã trả lời tôi như thế này:“Kính thưa thầy Thích Nhất Hạnh. Tôi mong muốn được hiểu rõ thêm về tình trạng chiến tranh ở Việt Nam. Xin mời thầy đến trình bày sự việc cho chúng tôi. Nếu gặp khó khăn trong vấn đề chiếu kháng, xin thầy hãy gọi cho tôi qua số này…“ Chỉ khi có một lá thư mời như thế thì tôi mới xin được chiếu kháng nhập cảnh, còn nếu không thì vô phương.

Phải nhìn nhận một điều là tôi đã có rất nhiều khó khăn trong hai năm đầu sống lưu vong. Cho dù đã là một ông thầy tu 40 tuổi và có nhiều đệ tử, tôi vẫn chưa tìm ra được quê hương đích thực của mình. Tôi có thể nói những bài pháp thật hay về sự thực tập đạo Bụt, nhưng tôi chưa thực sự đã về đã tới. Trên phương diện tri thức thì tôi tinh thông Phật pháp vì đã từng được đào tạo trong những trường Phật Học và tôi đã thực tập đạo Bụt từ năm 16 tuổi. Nhưng tôi vẫn chưa tìm được quê hương đích thực của mình.

Tôi định làm một chuyến du thuyết ở Hoa Kỳ, nói rõ cho dân Hoa Kỳ hiểu về tình trạng thực sự ở Việt Nam, sự thật mà họ không được nghe qua truyền thanh hay không được đọc trên báo chí. Trong chuyến du thuyết, tôi chỉ ngủ lại ở mỗi thành phố một hay hai đêm. Có những đêm tôi chợt thức giấc mà không biết là mình đang ở đâu. Tôi rất khổ sở. Tôi phải thở vào thở ra và cố nhớ lại là mình đang ở nước nào và ở thành phố nào.

Khi đó tôi thường hay mơ mình trở lại quê hương, trong ngôi chùa tổ ở miền Trung Việt Nam. Tôi leo lên đồi Dương Xuân đầy canh xây mướt, nhưng giữa đường thì tôi thức dậy và nhận ra rằng mình đang sống lưu vong. Giấc mơ đó thường trở lại với tôi. Trong thời gian đó tôi hoạt động rất nhiều, tôi học chơi với trẻ em đến từ các quốc gia như Đức, Pháp, Mỹ, Anh. Tôi kết bạn với các cha Anh giáo, các cha Công giáo, các mục sư Tin Lành, các giáo sĩ Do Thái giáo và nhiều người khác nữa. Tôi thực tập chánh niệm. Mỗi ngày, tôi sống trong giây phút hiện tại và tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Nhờ sự thực tập đó mà tôi sống sót. Cây cỏ ở Châu Âu rất khác với Việt Nam. Hoa trái, người dân cũng hoàn toàn khác với Việt Nam. Sự thực tập đưa tôi trở về quê hương đích thực bây giờ và ở đây. Sau cùng tôi không còn đau khổ và giấc mơ kia cũng không trở lại nữa.

Người ta nghĩ tôi đau khổ tại vì không được phép trở về quê hương. Nhưng không phải như vậy. Khi tôi được trở về Việt Nam sau gần 40 năm sống lưu vong thì niềm vui của tôi là mình có thể cống hiến giáo lý, sự thực tập chánh niệm và Đạo Bụt Dấn Thân cho các thầy, các sư cô và các cư sĩ ở đây; niềm vui được nói chuyện với các nghệ sĩ, nhà văn, nhà giáo. Tuy nhiên, nếu đến lúc phải rời quê hương lần nữa thì tôi cũng sẽ không đau khổ.

“ Đã về, đã tới“ là sự thực tập của tôi. Đó là một trong những pháp ấn của Làng Mai. Nó diễn đạt sự hiểu biết của tôi về Phật pháp và là tinh hoa của sự thực tập của tôi. Từ khi tìm được quê hương đích thực, tôi không còn đau khổ nữa. Quá khứ không còn là ngục tù giam hãm tôi, tương lai cũng vậy. Tôi có thể sống ngay bây giờ và ở đây và tiếp xúc với quê hương đích thực. Tôi có thể“đã về đã tới“ trong từng hơi thở, trong từng bước chân mà không cần mua vé hay qua trạm kiểm soát an ninh. Chỉ cần vài giây là tôi đã về đã tới.

Trong khi tiếp xúc sâu sắc với giây phút hiện tại thì chúng ta cũng đồng thời tiếp xúc với quá khứ và tương lai. Nếu biết cách xử lý giây phút hiện tại thì quá khứ cũng được chữa lành. Thực ra, chính nhờ không có quê hương mà tôi có cơ hội tìm được cho mình một quê hương đích thực. Điều này rất quan trọng. Nhờ không thuộc về riêng một quốc gia nào mà tôi đã cố gắng đột phá và tìm được quê hương đích thực. Cái cảm giác không được chấp nhận, không có nơi thuộc về, không có đặc tính quốc gia đó đã kích thích sự đột phá cần thiết để chúng ta tìm ra được quê hương đích thực của mình.

Thiền sư Nhất Hạnh

(dịch từ At Home in the World)

Hãy là nụ cười

Ngày nào cũng thực tập quán niệm, giờ nào cũng thực tập quán niệm… Nói thì dễ nhưng thực hành cho được thường xuyên là chuyện không dễ… Vậy cho nên tôi đề nghị những người trong lớp thiền tập nên để dành một ngày trong tuần để khởi sự thực tập. Đã đành trên nguyên tắc ngày nào cũng là ngày của mình, giờ nào cũng là giờ của mình, nhưng trên thực tế mình hoàn toàn chưa thể nào chủ động được và mình có cảm tưởng gia đình, sở làm và xã hội chiếm mất hết thì giờ của mình. Vì vậy tôi đề nghị họ lấy một ngày trong tuần làm“ngày của mình“. Ngày này sẽ là bàn đạp tạo nên thói quan tốt đẹp của sự thực tập quán niệm.

Tác viên xã hội ai cũng có quyền có một ngày như vậy mỗi tuần, nếu không ta sẽ tự đánh mất mình một cách dễ dàng trong cuộc đời náo động. Ta tạm gọi cái ngày thứ bảy kia là ngày quán niệm. Muốn tổ chức ngày quán niệm ta hãy chuẩn bị làm sao khi thức dậy trong buổi sáng, ta có thể nhớ ngày dó là ngày quán niệm. Treo một cái gì ở trên trần nhà hay ở trong mùng. Ví dụ như một chữ“quán“ hay một cành thông chẳng hạn, để khi thức dậy là ta có thể trông thấy và biết đây là ngày quán niệm, ngày“của mình“.

Nhớ ra như vậy rồi, ta nên mỉm cười để chứng tỏ rằng ta đang có ý thức trọn vẹn và cũng là nuôi dưỡng ý thức trọn vẹn đó. Nằm trên giường ta bắt đầu theo dõi hơi thở, điều phục hơi thở, thở những hơi chậm, dài và ý thức. Rồi ta từ từ vén chăn ngồi dậy (đừng tung chăn chồm dậy như thường nhật). Nuôi dưỡng quán niệm trong từng cử chỉ. Ta xúc miệng đánh răng, chải đầu, cạo râu hay điểm trang một cách nhẹ nhàng, thong thả, cử động nào cũng được nhiếp phục trong quán niệm. Theo dõi hơi thở, nắm lấy hơi thở, đừng để tâm loạn động. Khi làm những cử động thể dục buổi sáng cũng vậy. Các cử động thể dục nên làm thong thả, đi đôi với nhịp thở dài và nhẹ. Trong khi tập thể dục, duy trì nụ cười hàm tiếu trên môi.

Nên để ra ít nhất là nửa giờ để tắm gội thong thả trong chánh niệm. Đôi khi tắm xong là ta đã thấy nhẹ nhàng khoan khoái rồi. Sau đó ta có thể đi làm việc nội trợ, giặt áo quần, chùi nhà, lau bàn, sửa bếp, xếp dọn sách vở. Những công việc ấy phải được làm thật khoan thai, nhẹ nhàng trong chánh niệm. Làm tức là tu, đừng mong cho chóng xong. Bí quyết là làm thong thả. Để tâm ý vào đó, ưa thích nó, đồng nhất với nó. Phải tìm được sự an lạc trong khi làm những việc đó. Nếu không thì ngày quán niệm đó xem như là thất bại. Những người mới tập thì nên giữ im lặng trong ngày quán niệm. Vận tốc của các cử động dưới ảnh hưởng của quán niệm được giảm xuống rất nhiều. Hãy nhìn những vị thiền sư. Họ đi đứng khoan thai, nhất cử nhất động đều nhẹ nhàng, không vụt chạc hay nóng nảy. Nói như thế không có nghĩa là trong ngày quán niệm ta không nên nói chuyện. Ta cũng có thể nói chuyện và cũng có thể hát nữa. Nhưng ta chỉ nên nói hay hát ít thôi, trong khi duy trì ý thức minh mẫn về những gì ta đang nói hoặc đang hát. Cố nhiên ta có thể vừa hát vừa quán niệm. Biết rõ là ta đang hát và ta đang hát gì. Tuy thế nên biết rằng trong khi ta hát, tình tiết và âm diệu có thể đưa ta lạc ra ngoài chánh niệm nếu năng lực tập trung của ta còn yếu kém. Buổi trưa ta có thể tự nấu cơm. Việc ăn cơm, rửa bát, nghỉ ngơi, tất cả cũng đều được thực hành trong chính niệm. Buổi sáng sau khi nhà cửa đã được dọn hay chăm bón, vun mấy khóm hoa. ta pha trà và ngồi uống trà trong chánh niệm. Để dành thật nhiều thì giờ cho công việc này. Đừng uống trà như người ta ăn hủ tiếu, cà phê ngoài tiệm trước khi đi làm, nghĩa là hấp tấp quá. Uống trà thật thảnh thơi, khoan thai, như nhịp đi của bốn mùa, như nhịp quay của trái đất, thong thả, đều đặn, không hấp tấp. Không đi tìm tương lai. Sống với giờ phút hiện tại. Chỉ có giờ phút hiện tại mới là sự sống. Đừng đồng nhất sự sống với tương lai. Đừng luôn nghĩ tới chuyện phải đi về tương lai. Đừng luôn luôn nghĩ tới chuyện khởi hành. Ngày xưa trong“Bướm bay vượn cải hoa vàng“, tôi viết :

Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng giậu,  

Là nụ cười,  

Là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.  

Tôi đứng đây, chúng ta không còn khởi hành.  

Quê hương chúng ta đẹp như quê hương của tuổi thơ.  

Xin đừng ai xâm phạm. Tôi vẫn còn hát ca….“.

Buổi chiều ta có thể đọc kinh, chép kinh, viết thơ cho bạn, làm bất cứ việc gì mà ta thích từ công việc trong tuần. Tôi nhắc em là làm gì cũng làm trong chánh niệm. Buổi tối ăn ít thôi, khoảng 10 – 11 giờ ta ngồi thiền đến nửa đêm sau khi bách bộ chừng một giờ để thở không khí trong lành, theo dõi hơi thở bằng quán niệm, đo chiều dài hơi thở bằng quán niệm, đo chiều dài hơi thở bằng bước chân ta về phòng và đi ngủ trong chánh niệm.

Thiến sư Nhất Hạnh

Trò chơi trốn tìm

Tổ Huyền Quang rất yêu hoa cúc. Ngài là tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm ở Việt Nam vào thế kỷ thứ 13, 14. Ngài tu tại chùa Côn Sơn miền Bắc Việt Nam. Ngài trồng hoa cúc khắp vườn chung quanh chùa.

Khi thích một vật gì đó thì chúng ta kẹt vào cái tướng của nó. Chúng ta biết nó sẽ thay đổi và biến mất đi nên chúng ta đau khổ. Một bông hoa biểu hiện ra, từ nụ rồi trở thành hoa. Nó ở với chúng ta một vài tuần rồi bắt đầu thay đổi và cánh hoa từ từ héo đi. Đến một lúc nào đó thì bông hoa rụng xuống và chết. Nếu yêu một bông cúc thì chúng ta phải thấy được bông cúc đó vượt ra ngoài cái tướng sinh-trú-dị-diệt của nó. Khi nó biểu hiện thì chúng ta mỉm cười và vui với nó. Nhưng khi nó ẩn tàng thì ta đừng nên buồn khổ và than khóc. Ta nói:“Năm sau ta sẽ gặp lại em nhé!“

Trong cốc của tôi bên Pháp có trồng một bụi hoa trà. Hoa trà thường nở vào mùa xuân. Nhưng mùa Đông năm đó, vì thời tiết ấm áp nên hoa trà nở sớm hơn. Một đêm, trời trở lạnh và đông cứng bất ngờ. Sáng hôm sau, khi đi thiền hành tôi thấy tất cả hoa trên cây đều chết cả. Tôi nghĩ:“Chắc năm nay mình không có hoa trà để cúng Bụt rồi.“

Vài tuần sau, thời tiết ấm áp trở lại. Tôi đi ra vườn và thấy trên cành cây hoa trà đã mọc ra những nụ mới. Tôi hỏi chúng:“Em là một hay là khác với những bông hoa bị đông chết kia?“Bông hoa trả lời tôi:“Chúng em không phải một cũng không phải khác. Khi những điều kiện đầy đủ thì chúng em biểu hiện, khi những điều kiện không đầy đủ thì chúng em ẩn tàng. Chỉ giản dị vậy thôi.“

Đó là giáo lý Bụt dạy. Khi điều kiện đầy đủ thì sự vật biểu hiện. Khi điều kiện không còn đầy đủ nữa thì sự vật rút lui và chờ đến khi thích hợp để biểu hiện ra trở lại. Trước khi sinh tôi thì mẹ tôi có mang một em bé khác. Bà bị sẩy thai và em bé đó không được sinh ra. Khi còn nhỏ tôi thường tự hỏi câu này: Em bé đó là anh tôi hay là tôi? Người nào muốn biểu hiện ra vào lúc đó? Nếu em bé mất đi thì có nghĩa là những diều kiện chưa đầy đủ để em bé biểu hiện ra và nó quyết định rút lui để chờ những điều kiện tốt hơn.“ Người thương ơi, tôi rút lui là hay nhất. Tôi sẽ trở lại một ngày gần đây.“ Chúng ta phải tôn trọng  ý muốn của em bé đó. Nếu nhìn cuộc đời bằng con mắt đó thì chúng ta sẽ bớt khổ hơn nhiều. Em bé mà mẹ tôi mất đó là anh của tôi hay nó chính là tôi. Tôi sắp sửa biểu hiện nhưng nghĩ lại,“Bây giờ chưa phải lúc,“ và tôi rút lui.

Thiền sư Nhất Hạnh (dịch từ Hide-and-Seek trong At Home in the World)